Hiện đại hóa – Suckhoexahoi.com https://suckhoexahoi.com Trang thông tin sức khỏe xã hội Việt Nam Fri, 22 Aug 2025 06:12:27 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/suckhoexahoi/2025/08/suckhoexahoi.svg Hiện đại hóa – Suckhoexahoi.com https://suckhoexahoi.com 32 32 Hà Nội ứng dụng công nghệ số trong quy hoạch đô thị như thế nào? https://suckhoexahoi.com/ha-noi-ung-dung-cong-nghe-so-trong-quy-hoach-do-thi-nhu-the-nao/ Fri, 22 Aug 2025 06:12:24 +0000 https://suckhoexahoi.com/ha-noi-ung-dung-cong-nghe-so-trong-quy-hoach-do-thi-nhu-the-nao/

Với mục tiêu trở thành một đô thị thông minh, hiện đại và bền vững, Hà Nội đang đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số trong quy hoạch đô thị. Thành phố đã và đang tận dụng các công nghệ tiên tiến như GIS (Hệ thống Thông tin Địa lý), BIM (Mô hình thông tin xây dựng), AI (Trí tuệ nhân tạo) và IoT (Internet vạn vật) để tạo ra một hệ sinh thái quy hoạch hiện đại. Tại đây, mọi công trình, tuyến đường và mạng lưới hạ tầng sẽ được mô hình hóa 3D, đánh giá vòng đời, kết nối dữ liệu thời gian thực và hỗ trợ ra quyết định nhanh chóng, chính xác.

Hà Nội đã đặt ra mục tiêu đến năm 2026 sẽ số hóa 100% hồ sơ quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch phân khu trên nền GIS. Đến năm 2030, toàn bộ dữ liệu quy hoạch kỹ thuật và kiến trúc của thành phố sẽ được GIS hóa và cung cấp công khai trên nền tảng tra cứu trực tuyến. Việc này không chỉ thể hiện bước tiến về mặt kỹ thuật mà còn khẳng định cam kết về minh bạch và cải cách hành chính của chính quyền đô thị hiện đại.

Các chuyên gia cho rằng việc ứng dụng công nghệ số trong quy hoạch không chỉ giúp xây dựng nhiều hơn, nhanh hơn mà còn giúp phát triển hài hòa hơn, bền vững hơn. Đó là tư duy quy hoạch mới mà Hà Nội cần theo đuổi. PGS.TS Trần Hải Dương, chuyên gia công nghệ đô thị, nhấn mạnh rằng Hà Nội đang cần xây dựng một hệ sinh thái dữ liệu thông minh, tích hợp GIS, AI, IoT với Big Data để phục vụ quy hoạch, giám sát và dự báo phát triển đô thị.

Theo lộ trình được Sở Quy hoạch – Kiến trúc Hà Nội công bố, thành phố đặt ra các cột mốc cụ thể: giai đoạn 2025-2026 sẽ hoàn tất số hóa toàn bộ hồ sơ quy hoạch phân khu, quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch hạ tầng kỹ thuật cấp thành phố; giai đoạn 2027-2030 sẽ mở rộng mô hình hóa dữ liệu BIM cho các công trình công cộng, tuyến đường, hạ tầng kỹ thuật chủ chốt; giai đoạn 2030-2035 sẽ triển khai nền tảng tra cứu dữ liệu mở toàn thành phố, kết nối quy hoạch với dữ liệu dân cư, giao thông, môi trường trên nền GIS – BIM – AI.

Tầm nhìn xuyên suốt của lộ trình này là xây dựng một hệ thống ‘bản sao số’ toàn diện cho đô thị Hà Nội, nơi mỗi quyết định quy hoạch đều có căn cứ từ dữ liệu, mô phỏng, phân tích và đánh giá chính sách theo thời gian thực. Để thành công, thành phố cần không chỉ dừng lại ở đầu tư công nghệ mà còn phải cải cách đồng bộ về thể chế, đào tạo nhân lực, xây dựng văn hóa minh bạch hóa dữ liệu và kết nối cộng đồng.

Thông tin chi tiết về kế hoạch của Hà Nội có thể được tìm thấy tại các nguồn sau: GIS, các ứng dụng công nghệ trong quy hoạch đô thị và thông tin liên quan đến xây dựng chính quyền điện tử của thành phố Hà Nội.

]]>
Vướng mắc pháp lý từ sắp xếp tổ chức bộ máy chính quyền địa phương https://suckhoexahoi.com/vuong-mac-phap-ly-tu-sap-xep-to-chuc-bo-may-chinh-quyen-dia-phuong/ Thu, 07 Aug 2025 13:56:15 +0000 https://suckhoexahoi.com/vuong-mac-phap-ly-tu-sap-xep-to-chuc-bo-may-chinh-quyen-dia-phuong/

Việc sáp nhập các đơn vị hành chính đang tạo ra những thách thức lớn trong việc áp dụng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) tại các địa phương. Tình trạng “khoảng trống pháp lý” và “lúng túng thể chế” đã xuất hiện tại nhiều nơi, gây gián đoạn hoạt động quản lý và ảnh hưởng đến quyền lợi của người dân.

Thực tế cho thấy, quá trình sáp nhập đơn vị hành chính đang diễn ra nhanh chóng, nhưng tốc độ sắp xếp tổ chức bộ máy chưa đi kèm với tiến độ chuẩn bị thể chế. Điều này dẫn đến sự chồng chéo, mâu thuẫn hoặc thiếu hụt văn bản điều chỉnh, tạo ra những hệ lụy pháp lý nghiêm trọng. Tại nhiều địa phương, tình trạng ban hành VBQPPL không kịp tiến độ tổ chức lại bộ máy đang trở thành điểm nghẽn, cản trở việc ổn định hoạt động của chính quyền mới.

Để khắc phục tình trạng này, cần tuân thủ các nguyên tắc bảo đảm thống nhất, ổn định hệ thống pháp luật khi tổ chức lại đơn vị hành chính. Trước hết, cần bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với hệ thống pháp luật hiện hành. Việc sửa đổi, thay thế hoặc ban hành mới VBQPPL tại địa phương sau khi sáp nhập phải được rà soát kỹ lưỡng về mặt căn cứ pháp lý, bảo đảm không mâu thuẫn hoặc chồng chéo với luật và các văn bản của Trung ương.

Thứ hai, cần bảo đảm tính kế thừa hợp lý. Việc sáp nhập đơn vị hành chính không có nghĩa là phủ nhận hoàn toàn giá trị của hệ thống văn bản tại các đơn vị cũ. Ngược lại, nhiều văn bản đã được xây dựng công phu, đã được kiểm nghiệm trong thực tiễn và đang phát huy hiệu quả, cần được kế thừa, hiệu chỉnh, chứ không nên xóa bỏ hoàn toàn.

Thứ ba, lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm trong quá trình xây dựng pháp luật. Trong mọi hoạt động quản trị nhà nước, việc lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm không chỉ là một khẩu hiệu hành chính, mà phải được thể hiện rõ trong nội dung và quy trình xây dựng văn bản pháp luật.

Để hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật sau sáp nhập, cần thực hiện một số giải pháp cụ thể. Trước hết, cần tổ chức một cuộc tổng rà soát hệ thống VBQPPL đang áp dụng tại các đơn vị hành chính liên quan. Trên cơ sở rà soát, chính quyền cấp huyện cần lập danh mục phân loại các văn bản theo ba nhóm: (i) văn bản tiếp tục áp dụng không cần sửa đổi; (ii) văn bản cần sửa đổi, bổ sung; (iii) văn bản cần bãi bỏ.

Thứ hai, cần xây dựng bộ tiêu chí đánh giá chất lượng thể chế sau sáp nhập. Chất lượng thể chế không thể đo bằng số lượng văn bản ban hành mà cần có các tiêu chí rõ ràng về hiệu lực, hiệu quả, tính hợp pháp, tính khả thi và tính minh bạch.

Thứ ba, cần củng cố đội ngũ làm công tác pháp chế ở địa phương. Một trong những điểm yếu cố hữu của chính quyền địa phương là năng lực pháp chế chưa được quan tâm đúng mức. Sau sáp nhập, điều này càng trở nên nghiêm trọng khi địa bàn quản lý rộng hơn, số lượng đầu mối công việc tăng lên, nhưng đội ngũ làm công tác pháp chế vẫn còn mỏng, thiếu chuyên môn hoặc kiêm nhiệm.

Cuối cùng, cần áp dụng công nghệ thông tin trong hệ thống hóa và quản lý văn bản pháp luật địa phương. Việc quản lý văn bản thủ công đang là một rào cản lớn khiến các địa phương chậm trễ trong rà soát và điều chỉnh hệ thống VBQPPL.

]]>
Chuyển đổi số trong bảo tàng Việt Nam – Yêu cầu cấp thiết trong kỷ nguyên số https://suckhoexahoi.com/chuyen-doi-so-trong-bao-tang-viet-nam-yeu-cau-cap-thiet-trong-ky-nguyen-so/ Sun, 27 Jul 2025 13:56:17 +0000 https://suckhoexahoi.com/chuyen-doi-so-trong-bao-tang-viet-nam-yeu-cau-cap-thiet-trong-ky-nguyen-so/

Trong thời đại số hóa hiện nay, việc áp dụng công nghệ vào hoạt động bảo tàng đã trở thành một xu hướng tất yếu trên toàn thế giới. Mục đích chính của việc này là hiện đại hóa công tác bảo tồn, tăng cường khả năng tiếp cận di sản và hội nhập với xu thế phát triển chung của bảo tàng thế giới trong kỷ nguyên số. Mới đây, trong chuyến đi học tập và trao đổi kinh nghiệm bảo tồn di sản tại Ba Lan, Tiến sĩ Nguyễn Anh Minh, Giám đốc Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, đã chia sẻ quan điểm rằng đã đến lúc các bảo tàng tại Việt Nam cần thiết có một phòng chuyển đổi số.

Việc thành lập phòng chuyển đổi số tại các bảo tàng không chỉ giúp hiện đại hóa công tác bảo tàng mà còn đóng vai trò quan trọng trong công tác bảo tồn di sản một cách bền vững. Qua đó, các bảo tàng có thể thu hút công chúng thế hệ mới và hội nhập quốc tế. Kinh nghiệm từ Ba Lan, một quốc gia có hệ thống bảo tàng hiện đại và năng động bậc nhất Đông Âu, cho thấy rằng việc thành lập phòng chuyển đổi số đã trở thành một phần không thể thiếu trong hoạt động của các bảo tàng.

Ông Nguyễn Anh Minh và đoàn công tác cùng đoàn cán bộ Bảo tàng Công viên Hoàng gia Łazienki tại Warsaw
Ông Nguyễn Anh Minh và đoàn công tác cùng đoàn cán bộ Bảo tàng Công viên Hoàng gia Łazienki tại Warsaw

Phòng chuyển đổi số tại các bảo tàng Ba Lan đảm nhiệm nhiều nhiệm vụ chuyên biệt, bao gồm số hóa hiện vật, xây dựng và cập nhật cơ sở dữ liệu, đăng tải nội dung lên các nền tảng số, phục vụ cho công tác in ấn, xuất bản, cũng như truyền thông và nghiên cứu. Một điểm đáng chú ý là tất cả các bảo tàng tại Ba Lan đều được trang bị studio chụp ảnh chuyên nghiệp có diện tích lớn, hệ thống ánh sáng chuẩn bảo tàng và máy ảnh hiện đại với độ phân giải cao.

Trao đổi với cán bộ phục chế, tu sửa tại Bảo tàng Vải tại Thành phố Łódź
Trao đổi với cán bộ phục chế, tu sửa tại Bảo tàng Vải tại Thành phố Łódź

Các studio này chính là nơi thực hiện việc số hóa chi tiết từng hiện vật, từng tác phẩm nghệ thuật với tiêu chuẩn kỹ thuật cao, đảm bảo tính chân thực và sắc nét khi chuyển sang không gian số. Sau khi hoàn tất khâu chụp ảnh và xử lý hình ảnh, dữ liệu được cập nhật lên hệ thống nền tảng số và tích hợp vào cơ sở dữ liệu số hóa, đây là quá trình lưu giữ toàn bộ hiện vật, hình ảnh, tư liệu của bảo tàng.

Quá trình này là nền tảng quan trọng để chia sẻ hình ảnh các hiện vật đến với các chuyên gia, nhà nghiên cứu, sinh viên và công chúng trong nước và quốc tế thông qua các cơ sở dữ liệu trực tuyến. Việc thành lập phòng chuyển đổi số không còn là sự lựa chọn, mà là một yêu cầu cấp thiết đối với các bảo tàng ở Việt Nam, nhằm hiện đại hóa công tác bảo tồn, tăng cường khả năng tiếp cận di sản và từng bước hội nhập với xu thế phát triển chung của bảo tàng thế giới trong kỷ nguyên số.

Tuy nhiên, tại Việt Nam hiện nay, hầu hết các bảo tàng vẫn vận hành theo mô hình truyền thống và chưa có phòng chuyên trách cho chuyển đổi số. Các chuyên gia cho rằng, nếu không có bước nhảy về công nghệ, bảo tàng sẽ tiếp tục lùi lại phía sau, không bắt kịp nhu cầu và tâm lý tiếp cận mới của công chúng. Một rào cản lớn là hầu hết các bảo tàng tại Việt Nam chưa có phòng chuyên trách cho chuyển đổi số.

Việc số hóa hiện vật, nếu có, thường được thực hiện rời rạc, dưới dạng các dự án ngắn hạn, thuê ngoài. Điều này khiến dữ liệu thiếu đồng bộ, không bảo mật, khó duy trì và không phát huy được giá trị về lâu dài. Do đó, việc thành lập một quỹ chuyển đổi số trong lĩnh vực bảo tàng tại Việt Nam là hết sức cần thiết, nhằm tạo ra nguồn lực ổn định để hỗ trợ các bảo tàng từng bước hình thành phòng chuyển đổi số, triển khai số hóa hiện vật, xây dựng cơ sở dữ liệu và phát triển nền tảng trưng bày số một cách bài bản, bền vững.

]]>
Hải Phòng cơ giới hóa sản xuất lúa, tăng năng suất 10-15% https://suckhoexahoi.com/hai-phong-co-gioi-hoa-san-xuat-lua-tang-nang-suat-10-15/ Sun, 27 Jul 2025 04:29:00 +0000 https://suckhoexahoi.com/hai-phong-co-gioi-hoa-san-xuat-lua-tang-nang-suat-10-15/

Hải Phòng đang trải qua một cuộc cách mạng trên lĩnh vực nông nghiệp, đặc biệt là trong sản xuất lúa. Tại xã Việt Khê, thành phố Hải Phòng, những cánh đồng rộng lớn đã chuyển mình với sự xuất hiện của máy móc hiện đại và công nghệ tiên tiến. Thay vì cảnh “con trâu đi trước, cái cày theo sau”, giờ đây là hình ảnh của những cỗ máy cày công suất lớn, máy cấy ngồi lái hiện đại và thiết bị bay không người lái (drone) nhẹ nhàng lướt trên mặt ruộng.

Với chiếc máy cấy này, chỉ 2 người có thể nhanh chóng cấy xong cánh đồng lớn trong một buổi. Ảnh:
Với chiếc máy cấy này, chỉ 2 người có thể nhanh chóng cấy xong cánh đồng lớn trong một buổi. Ảnh:

Người tiên phong trong việc tích tụ ruộng đất và áp dụng công nghệ vào sản xuất là anh Nguyễn Văn Hùng. Với niềm đam mê bất tận với nông nghiệp, anh Hùng đã trải qua nhiều thăng trầm và có đủ trải nghiệm để tìm ra hướng đi đúng đắn. Anh đã bắt đầu bằng việc thuyết phục các hộ dân cho mượn đất để sản xuất. “Tích tụ ruộng đất là bước đi then chốt đầu tiên. Ban đầu, có những hộ cho mượn đất miễn phí 1-2 vụ. Sau khi thấy mình làm hiệu quả, họ mới tin tưởng ký hợp đồng cho thuê dài hạn”, anh Hùng chia sẻ.

Anh Nguyễn Văn Hùng đã làm chủ cả cánh đồng lúa rộng lớn này bằng máy móc, công nghệ hiện đại. Ảnh: Đinh Mười.
Anh Nguyễn Văn Hùng đã làm chủ cả cánh đồng lúa rộng lớn này bằng máy móc, công nghệ hiện đại. Ảnh: Đinh Mười.

Sau nhiều năm kiên trì, anh Hùng đã tích tụ được khu đồng rộng 50 hecta. Sự minh bạch, giữ chữ tín và cam kết không thay đổi mục đích sử dụng đất đã giúp anh nhận được sự đồng thuận của hàng trăm hộ dân. Tuy nhiên, tích tụ đất đai chỉ là điều kiện cần, điều kiện đủ là phải có công nghệ. Với quy mô 50 hecta, sản xuất thủ công là điều không tưởng. Do vậy, anh Hùng đã phải huy động nguồn lực lên tới hàng tỷ đồng để đầu tư hệ thống máy móc, công nghệ hiện đại, đồng bộ như máy cày, máy gặt đập liên hợp và thuê dịch vụ drone phun thuốc.

Nhờ công nghệ và máy móc hiện đại, anh Hùng làm chủ được vùng sản xuất rộng lớn mà năng suất lúa vẫn vượt trội. Ảnh: Đinh Mười.
Nhờ công nghệ và máy móc hiện đại, anh Hùng làm chủ được vùng sản xuất rộng lớn mà năng suất lúa vẫn vượt trội. Ảnh: Đinh Mười.

Việc áp dụng công nghệ đã mang lại hiệu quả kinh tế rõ ràng. Chi phí lao động giảm 35-50%, năng suất tăng 10-15%, và quan trọng nhất là anh hoàn toàn chủ động trong sản xuất, không còn lệ thuộc vào nhân công thời vụ. Mô hình sản xuất của anh Hùng là một điểm sáng, đã khắc phục được tình trạng ruộng đất bỏ hoang và định hướng sản phẩm tiệm cận các tiêu chuẩn cao hơn như hữu cơ, phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu.

Năm 2025, mô hình của anh Nguyễn Văn Hùng nhận được sự hỗ trợ quan trọng từ Trung tâm Khuyến nông Hải Phòng thông qua dự án “Cánh đồng công nghệ chính xác DTALS trong sản xuất lúa giảm phát thải khí nhà kính, gắn với tăng trưởng xanh”. Với tổng diện tích đất nông nghiệp lên tới trên 185.000 hecta, Hải Phòng có tiềm năng khổng lồ để nhân rộng các mô hình như của anh Hùng. Đây là lúc cần chuyển mạnh từ sản xuất truyền thống sang nông nghiệp thông minh, sinh thái và số hóa trong sản xuất.

Việc nhân rộng mô hình sản xuất tiên tiến này không chỉ giúp tăng hiệu quả kinh tế mà còn góp phần bảo vệ môi trường và đảm bảo an ninh lương thực. Với sự hỗ trợ từ các cơ quan chức năng và sự tiên phong của các doanh nghiệp, Hải Phòng đang trên đà trở thành một điển hình trong sản xuất nông nghiệp công nghệ cao.

Trong bối cảnh hiện nay, khi mà vấn đề an ninh lương thực và biến đổi khí hậu đang trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết, việc áp dụng công nghệ vào sản xuất nông nghiệp không chỉ là một lựa chọn mà còn là một yêu cầu tất yếu. Hải Phòng đang lấy làm tiền đề cho các địa phương khác trong việc xây dựng một nền nông nghiệp bền vững và hiện đại.

Trước những thách thức và cơ hội mới, người dân Hải Phòng đang kỳ vọng vào một tương lai tươi sáng hơn cho ngành nông nghiệp của mình, với những cánh đồng công nghệ cao và môi trường sinh thái được bảo vệ.

]]>